Tục ngữ là gì? Các công bố khoa học về Tục ngữ
Tục ngữ là một loại câu nói ngắn gọn và có tính chất cách mạng hóa của dân gian, được truyền tụng qua thời gian. Tục ngữ thường chứa đựng những nguyên tắc, sự k...
Tục ngữ là một loại câu nói ngắn gọn và có tính chất cách mạng hóa của dân gian, được truyền tụng qua thời gian. Tục ngữ thường chứa đựng những nguyên tắc, sự khôn ngoan, kinh nghiệm của cuộc sống, có thể bao gồm các lời cảnh báo, khuyên bảo hay những câu châm ngôn. Tục ngữ được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp hàng ngày để truyền đạt một ý nghĩa nhất định.
Tục ngữ (còn được gọi là thành ngữ, ca dao, ngạn ngữ) là một biểu thức ngắn gọn chứa đựng một thông điệp hay một ý nghĩa sâu sắc. Được hình thành từ truyền miệng và lưu truyền qua thời gian, các tục ngữ thường là sản phẩm của tri thức cộng đồng và kinh nghiệm sống của các thế hệ trước.
Tục ngữ thường được hình thành từ quan sát, trực giác, tư duy và nhìn nhận của con người về cuộc sống, tự nhiên, xã hội và nhân văn. Chúng thường chứa đựng một sự khôn ngoan nhất định và mang tính ứng dụng cao trong việc giáo dục, giao tiếp và truyền đạt thông điệp.
Tục ngữ có đặc điểm ngắn gọn, dễ nhớ, thường có nhịp điệu và rõ ràng nghĩa, giúp truyền tải một ý nghĩa phức tạp trong một câu nói đơn giản. Chúng thể hiện tư duy của một cộng đồng, văn hóa hay quốc gia cụ thể, và thường được sử dụng trong đời sống hàng ngày, văn bản, hội thoại, và thậm chí trong nghệ thuật và văn chương.
Một số ví dụ về tục ngữ nổi tiếng là: "Đường màu nào, đi đường đó" (nghĩa là tuỳ theo tình huống, người ta sẽ phải thích ứng và chấp nhận), "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" (nhắc nhở tới việc biết ơn và tôn trọng công lao của người khác), "Có chí thì nên" (để khuyến khích động viên người khác), "Ngã ba đầu đường" (đại diện cho sự khó khăn trong việc lựa chọn và quyết định), và "Tiền nào của nấy" (nghĩa là số tiền đã chi đã được đáng đồng tiền bát gạo).
Tục ngữ là một phần quan trọng của văn hóa và ngôn ngữ mỗi quốc gia và khu vực, góp phần làm bổ sung và phản ánh cuộc sống, tri thức và truyền thống của một cộng đồng.
Tục ngữ hay thành ngữ là những câu nói ngắn gọn, mang tính phổ biến và thường được lưu truyền qua miệng người dân trong một cộng đồng cụ thể. Chúng mang tính cách mạng hóa và thường chứa đựng những kiến thức, tri thức và kinh nghiệm nhân sinh được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tục ngữ thường được sử dụng trong giao tiếp hàng ngày và có thể có nhiều nguồn gốc khác nhau như dân tộc, văn hóa, địa phương.
Tục ngữ có nhiều tính chất và công dụng khác nhau. Một số tính chất của tục ngữ bao gồm:
1. Ngắn gọn: Tục ngữ thường được biểu đạt trong một câu hoặc một vài từ, mang tính chất ngắn gọn, dễ thuộc và truyền đạt ý nghĩa một cách nhanh chóng.
2. Đúc kết tri thức: Tục ngữ thường chứa đựng các nguyên lý, quan niệm và trí huệ thực tiễn của dân gian. Chúng thể hiện sự tổng hợp và đúc kết của tri thức dân gian trong nhiều lĩnh vực như cuộc sống, con người, tình yêu, công việc, gia đình, xã hội, và nhiều lĩnh vực khác.
3. Gạo cội và sâu sắc: Tục ngữ thường được hình thành từ kinh nghiệm sống và sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống. Chúng thể hiện sự khôn ngoan, sự nhận thức về mặt tích cực và tiêu cực của con người và cuộc sống, và có thể mang những lời khuyên, cảnh báo hay giải tỏa.
4. Tích danh và xuất xứ: Mỗi tục ngữ thường có nguồn gốc và danh tiếng riêng. Chúng có thể xuất phát từ văn minh dân tộc, truyền thống lịch sử, văn hóa địa phương, hoặc từ các bậc tiền bối có uy tín trong cộng đồng. Từ này tục ngữ còn có thể thể hiện đặc điểm địa lý, truyền thống hoặc tín ngưỡng văn hóa.
Tục ngữ có nhiều ứng dụng và công dụng trong cuộc sống hàng ngày của con người. Chúng có thể được sử dụng để giảng dạy, truyền đạt giá trị và triết lý, thúc đẩy tư duy, thể hiện sự khéo léo trong giao tiếp, và làm giàu trải nghiệm của một cộng đồng. Tục ngữ cũng có thể được sử dụng trong giả trí, nghệ thuật, văn chương và truyền thông, để tạo điểm nhấn, tác động và gây ấn tượng cho người nghe hoặc đọc.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "tục ngữ":
Từ nguồn nước đến cửa sông, các biến số vật lý trong một hệ thống sông ngòi tạo ra một gradient liên tục của các điều kiện vật lý. Gradient này sẽ kích thích một loạt các phản ứng trong các quần thể thành phần, dẫn đến một chuỗi các điều chỉnh sinh học và các mẫu thống nhất về tải, vận chuyển, sử dụng và lưu trữ chất hữu cơ dọc theo chiều dài của một dòng sông. Dựa trên lý thuyết cân bằng năng lượng của các nhà địa hình học dòng chảy, chúng tôi giả thuyết rằng các đặc điểm cấu trúc và chức năng của cộng đồng dòng chảy đã thích nghi để phù hợp với vị trí có khả năng xảy ra nhất hoặc trạng thái trung bình của hệ thống vật lý. Chúng tôi cho rằng các cộng đồng sản xuất và tiêu thụ đặc trưng của một đoạn sông nhất định được thiết lập một cách hài hòa với các điều kiện vật lý động của lòng sông. Trong các hệ thống dòng chảy tự nhiên, các cộng đồng sinh học có thể được đặc trưng là hình thành một liên tục tạm thời của các sự thay thế loài đồng bộ. Sự thay thế liên tục này hoạt động để phân phối việc sử dụng các đầu vào năng lượng theo thời gian. Do đó, hệ sinh học tiến gần đến một cân bằng giữa xu hướng sử dụng hiệu quả các đầu vào năng lượng thông qua phân bổ tài nguyên (thức ăn, nền, v.v.) và một xu hướng đối lập cho tốc độ xử lý năng lượng đồng nhất trong suốt cả năm. Chúng tôi lý thuyết rằng các cộng đồng sinh học phát triển trong các dòng sông tự nhiên giả định các chiến lược xử lý liên quan đến việc giảm thiểu tổn thất năng lượng. Các cộng đồng hạ lưu được hình thành để tận dụng những bất cập trong xử lý ở thượng lưu. Cả sự bất cập ở thượng lưu (rò rỉ) và các điều chỉnh ở hạ lưu dường như có thể dự đoán trước. Chúng tôi đề xuất rằng Khái Niệm Liên Tục Sông Ngòi cung cấp một khung cho việc tích hợp các đặc điểm sinh học có thể dự đoán và quan sát được của các hệ thống chảy. Các tác động của khái niệm này trong các lĩnh vực cấu trúc, chức năng và sự ổn định của các hệ sinh thái sông ngòi được thảo luận.
Mặc dù có rất nhiều nghiên cứu đã giải quyết vấn đề "công bằng kết quả," nhưng tương đối ít công trình làm sáng tỏ mối quan hệ giữa những cảm nhận về công bằng kết quả (công bằng phân phối), công bằng trong hệ thống tổ chức (công bằng thủ tục), sự hài lòng trong công việc và ý định nghỉ việc. Bài báo này phân tích mối quan hệ thực nghiệm giữa các loại công bằng được cảm nhận, thái độ làm việc quan trọng và ý định nghỉ việc bằng cách sử dụng mẫu 88 nhân viên trong các lĩnh vực kỹ thuật như thiết kế hỗ trợ bằng máy tính, kiểm tra và đảm bảo chất lượng sản phẩm, và sửa chữa thiết bị máy tính. Kết quả cho thấy ý định nghỉ việc nhạy cảm nhất với những cảm nhận về công bằng thủ tục. Các hàm ý của những kết quả này đối với các nhà quản lý được thảo luận.
Các mô hình đi bộ hiện tại được sử dụng để đánh giá khả năng chống rung của các cấu trúc chịu tải từ người đi bộ thường dựa trên các phép đo của những bước chân đơn lẻ được tái tạo theo khoảng thời gian chính xác. Giả định về chu kỳ hoàn hảo này cho phép mô hình hóa các lực do đi bộ dưới dạng chuỗi Fourier dựa trên nhịp đi bộ và các bội số nguyên của nó. Bài báo này xem xét các lực đi bộ liên tục thực tế thu được từ một máy chạy bộ có thiết bị đo và ảnh hưởng của những sai lệch ngẫu nhiên của chúng thông qua các mô phỏng thời gian về phản ứng cấu trúc, đồng thời chỉ ra rằng có sự khác biệt đáng kể giữa các phản ứng do các lực đi bộ thực tế không hoàn hảo và mô phỏng định kỳ hoàn hảo tương ứng. Những khác biệt này rõ ràng nhất đối với các bậc sóng cao hơn, nơi phản ứng rung được mô phỏng bị đánh giá quá cao. Là một đại diện thực tế cho sự đi bộ không hoàn hảo, một hàm mật độ tự phổ là cần thiết, và tính ngẫu nhiên tự nhiên dẫn đến một phương pháp xác suất để xử lý tải trọng từ người đi bộ áp dụng trong miền tần số. Phương pháp này có thể được sử dụng cho người đi bộ đơn lẻ cũng như tải trọng từ đám đông, nơi mà sự tương quan giữa các người đi bộ và thống kê về các nhịp đi bộ của họ được sử dụng.
Hen suyễn là một bệnh hô hấp mãn tính phổ biến ở trẻ em và người lớn. Một yếu tố di truyền quan trọng ảnh hưởng đến nguy cơ mắc hen suyễn đã được nhận diện từ lâu, mới đây thông qua việc xác định nhiều gen (ví dụ:
Xác định các biến thể di truyền liên quan đến trạng thái mắc hen suyễn bằng cách sử dụng dữ liệu nghiên cứu liên kết toàn bộ gen.
Chúng tôi mô tả kết quả từ một nghiên cứu liên kết toàn bộ gen về hen suyễn được thực hiện trên 3855 đối tượng, sử dụng một bảng các 455 089 biến thể đơn nucleotide (
Nghiên cứu liên kết toàn bộ gen đã dẫn đến việc ưu tiên 33 biến thể cho theo dõi ngay lập tức trong một nỗ lực tái lập nhiều giai đoạn. Trong số này, một biến thể phổ biến (rs9272346) nằm trong khoảng 1 Kb của
Tổng thể, các phát hiện của chúng tôi càng khẳng định thêm vùng
Sự cảm ứng của gen sớm ngay lập tức
Đề xuất thuế trên lợi tức kinh tế thu được từ các khoản đầu tư vào tài nguyên của Úc được xem xét từ quan điểm tiêu chí trung lập của nhà kinh tế học. Được đề xuất bởi Garnaut và Clunies-Ross (1975, 1977), Thuế lợi tức từ tài nguyên được cho là trung lập vì không làm cản trở hoặc biến dạng hành vi đầu tư. Chúng tôi chỉ ra rằng thuế đề xuất thực chất là một quyền chọn mua đối với giá trị được tạo ra bởi mỗi dự án tài nguyên cá nhân. Bằng cách điều chỉnh công thức định giá quyền chọn mua Black-Scholes (1973), chúng tôi sau đó chứng minh rằng tác động hiệu quả của thuế phụ thuộc vào rủi ro, thời gian tồn tại và tính khả thi của từng dự án. Do đó, trong điều kiện rủi ro, Thuế lợi tức từ tài nguyên không đáp ứng được tiêu chí trung lập.
Mặc dù việc trao đổi huyết tương trị liệu (TPE) với dung dịch albumin 5% được xem là an toàn, nhưng vẫn có những lo ngại về việc tiếp cận tĩnh mạch và độc tính gây hạ canxi huyết. Chúng tôi đã xem xét tần suất các biến chứng trong quá trình TPE được thực hiện với dung dịch albumin 5% bổ sung calcium gluconate và potassium chloride trong thời gian 5 năm tại cơ sở của chúng tôi. Tám mươi bốn bệnh nhân trưởng thành (46 nam và 38 nữ) đã trải qua 581 lần trao đổi huyết tương trong thời gian nghiên cứu. Các chỉ định phổ biến nhất là bệnh nhược cơ (37%), viêm đa dây thần kinh myelin cấp tính (31%) và viêm đa dây thần kinh myelin mạn tính (13%). Tất cả các quy trình đều sử dụng dung dịch ACD-A 2.2% được cung cấp với tốc độ trung bình tính toán là 0.26 mg/kg/phút, dẫn đến liều citrate trung bình mỗi TPE là 2.18 ± 0.48 g hoặc 27.8 ± 5.24 mg/kg trọng lượng cơ thể. Khó khăn trong việc tiếp cận tĩnh mạch đã xảy ra trong 85 quy trình (14.6%), nhưng hầu hết các TPE đều hoàn thành thành công. Hạ huyết áp và độc tính do citrate đã được ghi nhận ở <5% các TPE và chủ yếu có thể hồi phục. Chỉ có 17 lần trao đổi (3%) phải bị hủy bỏ do mất tiếp cận tĩnh mạch (
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10